Bạn biết chưa? muối cũng gây nên bệnh tật

Natri và Clo, thành phần chủ yếu của muối, là hai nguyên tố có vai trò hết sức quan trọng trong cân bằng thể dịch trong cơ thể, sự tồn tại và hoạt động bình thường của tất cả các tế bào, hoạt động chức năng của tất cả các cơ quan và bộ phận trong cơ thể. Nồng độ muối cũng như nhiều nguyên tố hóa học khác được giữ ở mức tương đối cân bằng nhờ vào hoạt động của hệ thần kinh, nội tiết, tiết niệu và tiêu hóa.
  • Thuốc xeloda là loại thuốc gì?

Hậu quả của thiếu muối
Nếu bị thiếu muối ít, cơ thể sẽ tự thích ứng bằng cách làm giảm đào thải natri qua nước tiểu và mồ hôi. Cơ thể cũng sẽ có cảm giác thèm ăn mặn hơn nên sẽ sớm có được lượng muối cần thiết trong cơ thể.
Lượng muối bình quân cần thiết cho cơ thể dao động từ
4 - 10g
muối NaCl/ ngày

Thiếu muối nặng thì có thể dẫn tới chuột rút, hoa mắt, chóng mặt, hôn mê và tử vong. Thiếu muối nặng thường gặp ở những người ra quá nhiều mồ hôi hoặc bị tiêu chảy nặng mà không được bù nước và muối hợp lý.

Công nhân luyện gang thép, làm đường; nông dân trong thời kỳ đồng áng, vận động viên, bộ đội trong thời gian luyện tập là những người có nhiều nguy cơ thiếu muối nặng... cần bổ sung cả đường và muối bằng cách nước uống. Trẻ nhỏ bị tiêu chảy cần được uống oresol hoặc bù nước và điện giải bằng đường tĩnh mạch theo chỉ định của thầy thuốc.

Nhu cầu và thói quen ăn mặn
Trung bình mỗi ngày cơ thể chúng ta cần từ 2 - 3 lít nước để bổ sung lượng nước bị hụt thông qua các hoạt động. Nếu tính tổng thể, cơ thể người trung bình sẽ chứa từ 7 - 8 lít (nước và máu). Khối lượng này đảm bảo cho hệ tuần hoàn, bài tiết hoạt động bình thường đúng chức năng của chúng. Lượng muối bình quân cần thiết cho cơ thể giao động từ 4 - 10g muối NaCl/ ngày, trong đó, thành phần muối có sẵn trong các thức ăn thiên nhiên chiếm khoảng 3%, số còn lại được bổ sung trong quá trình chế biến thực phẩ

Thói quen ăn mặn hoặc chế biến mặn các loại thức ăn sẽ làm tăng áp lực thẩm thấu trong máu, cơ thể sẽ có cảm giác khát, dẫn đến uống nước nhiều (quá lượng nước cho phép), tích giữ nước trong cơ thể gây tăng huyết áp. Cơ thể cũng tìm cách tăng đào thải natri qua nước tiểu, dẫn tới mất kali, canxi và nhiều khoáng chất khác và gây “mệt mỏi” cho hệ bài tiết, làm tăng cường độ làm việc của hệ thống tim mạch, thận và tiết niệu nên sớm dẫn tới suy giảm chức năng hoạt động của các hệ cơ quan này. Bên cạnh đó là các nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy tim, suy thận, loãng xương...
Ăn nhiều muối còn làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng và ung thư đường tiêu hóa. Đối với những người đã mắc bệnh tăng huyết áp, suy tim, suy thận và suy gan, ăn nhiều muối sẽ làm bệnh tiến triển nhanh hơn.
  • Phác đồ điều trị viêm gan C với loại thuốc sofosbuvir nhanh chóng và hiệu quả

Ăn nhạt cũng phải đúng cách
Theo khuyến cáo của Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), mỗi ngày chúng ta chỉ nên sử dụng 3 - 6g muối. Trong đó, phải tính muối trong nước chấm, nước mắm nêm trong đồ ăn và thực phẩm đã chứa muối sẵn. Chứ không phải sử dụng đồ luộc nhưng lại chấm thật nhiều nước mắm, nước tương... Người tăng huyết áp nên ăn khoảng 2g muối/ngày tùy theo huyết áp đo được và tình trạng tim mạch. Nếu gia đình bạn đã có cha, mẹ, ông, bà bị tăng huyết áp thì tốt nhất cả nhà nên tập thói quen ăn nhạt.

Gọi là “tập”, bởi qua kinh nghiệm điều trị của các bác sĩ thì càng tăng huyết áp càng thích ăn mặn. Vì thế giảm dần lượng muối trong mỗi bữa ăn chẳng khác gì “cai nghiện” và luôn phải nhớ mới thiết lập thói quen được.
Nên ăn muối gì?
Muối biển nguyên chất là lựa chọn thông minh bởi còn chứa một hàm lượng magiê, kali, lưu huỳnh, canxi và iốt.

Một chế độ ăn vừa phải muối mỗi ngày là tối ưu để phòng tăng huyết áp do ăn mặn. Cũng nên tùy công việc cụ thể: làm việc đổ mồ hôi nhiều vẫn nên bổ sung muối. Còn nếu đã có bệnh tim mạch, suy thận hay suy gan thì nên nghe theo lời khuyên của bác sĩ.
Nên sử dụng nước mắm pha loãng (cùng tỏi, ót...)

0 nhận xét:

Lạm dụng kháng sinh: Tự nguyện đầu hàng bệnh tật

Kháng sinh được phân làm nhiều nhóm như nhóm penicillin, cephalosporin, tetracyclin, quinolon. Mỗi nhóm có một số kháng sinh khác nhau. Những kháng sinh thường được sử dụng hiện nay: penicillin, amoxycillin, ampicillin, cephalosporin, erythromicin, tetracylin, doxycyclin, ciprofloxacin, chloramphenicol.

Dị ứng do kháng sinh

Kháng sinh thường được sử dụng như thế nào?

Phần lớn các nhiễm khuẩn thông thường trong sinh hoạt được chữa bằng uống thuốc kháng sinh. Một số thuốc kháng sinh dùng cho mắt, tai được sử dụng bằng dung dịch, nhỏ giọt. Đối với những nhiễm khuẩn nặng phải sử dụng kháng sinh qua đường tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc có khi qua đường truyền dịch nếu cần. Muốn có tác dụng tốt, thầy thuốc phải làm kháng sinh đồ để xác định loại vi khuẩn gây bệnh và chọn kháng sinh thích hợp để có tác dụng tốt; trường hợp xét nghiệm như vậy có thể dùng kháng sinh phổ hẹp (narrow spectrum). Thông thường có thể sử dụng kháng sinh phổ rộng.
  • Chấm dứt viêm gan C với sofosbuvir 400 mg  cho bạn hiểu quả tới 90%

Dùng kháng sinh phải dùng đủ liều, đủ thời gian có tác dụng và theo dõi tác dụng của kháng sinh đối với nhiễm khuẩn, như vậy mới có kết quả chắc chắn, tác dụng phụ của kháng sinh thông thường cũng được giảm nhẹ. Một số tác dụng phụ hay gặp là tiêu chảy vì kháng sinh có thể làm thay đổi cân bằng giữa vi khuẩn bình thường và các loại men, nấm (như Candida Albicans).

Dị ứng penicillin có thể gây mẩn đỏ, trường hợp phản ứng phản vệ (sốc phản vệ) có thể đe dọa tính mạng người bệnh cho nên phải hết sức thận trọng, biết được phản ứng dị ứng do thuốc mà tránh dùng loại thuốc đó.

Có khi có tác dụng chữa nhưng lại dễ gây ra phản ứng dị ứng, mẫn cảm thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Sử dụng nhiều kháng sinh và liều cao có khả năng gây suy tủy, nhất là trường hợp sử dụng chloramphenicol nhiều.

Một số kháng sinh như streptomycine, kanamycine dùng liều cao có thể gây điếc và suy thận.

Lạm dụng kháng sinh làm cho vi khuẩn nhờn thuốc, kháng thuốc ngày càng nhiều, từ đó việc chữa trị bệnh càng khó khăn. Ngày nay các tụ cầu trùng kháng thuốc cephalosporin càng nhiều. Một số vi khuẩn khác cũng kháng thuốc do đó tác dụng chữa trị của kháng sinh ngày càng hạn chế.

Các lý do dẫn đến lạm dụng kháng sinh

Do bệnh nhân: Nhiều người tưởng rằng kháng sinh chữa được bách bệnh, nên hễ bị bệnh là dùng kháng sinh, vì ở ta việc mua bán kháng sinh còn dễ dàng. Khuynh hướng tự mua thuốc, tự chữa bệnh ngày càng phổ biến - đó là lý do dễ lạm dụng kháng sinh.
  • Thuốc xeloda là loại thuốc gì?

Do thầy thuốc: Trong thực tế hằng ngày, việc sử dụng kháng sinh cũng rộng rãi. Ví dụ, khi chưa xác định được loại vi khuẩn nào và nên dùng loại kháng sinh nào là thích hợp, nhưng theo yêu cầu của bệnh nhân, một số thầy thuốc cũng dễ chỉ định sử dụng kháng sinh. Biết là chưa thật xác đáng, nhưng một số thầy thuốc vẫn kê đơn kháng sinh. Đó cũng là một cách lạm dụng kháng sinh.

Việc sử dụng thuốc, việc bán thuốc ở nước ta cũng chưa thật chặt chẽ theo quy định nên vẫn xảy ra tình trạng lạm dụng thuốc trong điều trị. Về vấn đề lạm dụng kháng sinh, từ năm 2001, Tổ chức Y tế Thế giới đã có “Kế hoạch toàn cầu để kiểm soát sự đề kháng kháng sinh” và cấm lạm dụng kháng sinh. Ở nước ta, Bộ Y tế cũng đã có những quy định cụ thể về sử dụng kháng sinh và cấm lạm dụng kháng sinh.


0 nhận xét:

2 cây cỏ đặc biệt được vinh danh trong giải Nobel Y học

Lọt vào tầm của Nobel Y học danh giá không phải dễ, nhưng có 2 loại cây đã lên ngôi, nó là nguồn cội của sáng tạo y học, đồng thời cũng là nguồn cội của cứu thế nhân gian...

Cam và câu chuyện về bảo tồn sự sống

Cây cam vốn là một loại cây thân thuộc. Loại cây này trong y học cổ truyền có nhiều công dụng để làm thuốc. Quả cam có vị chua ngọt, tính lương, có tác dụng sinh tân, giải khát, khai vị, chữa ho, dùng để chữa ho hen lâu ngày, kích thích ăn uống, giải rượu.

Có một sự thật ít ai biết, cam gắn liền với vitamin C, gắn liền với nhà sinh lý học Albert Szent Gyorgyi, nhà khoa học giành giải Nobel Y học năm 1937.
  • Loại thuốc  xeloda 500mg tablets patient informationsofosbuvir


Cha đẻ của vitamin C là Albert Szent Gyorgyi de Nagyrapolt (1893-1986). Szent Gyorgyi là một nhà sinh lý người Hungary. Ông sinh ra ở Budapest, thủ đô của Hungary. Ông giành giải thưởng Nobel Y học năm 1937 cho khám phá kỳ vĩ của mình: vitamin C. Ông cũng là nhà khoa học lỗi lạc tìm ra các chất hóa học và các phản ứng của vòng chuyển hóa citric.

Vitamin C là một loại vitamin có khá nhiều chức năng, nó giúp cơ thể tăng cường chuyển hóa chất, tăng sử dụng chất bột đường, chất béo và chất đạm. Vitamin C hoạt động như một chất chống ôxy hóa, chống lại các gốc tự do thừa thãi hoạt động trong cơ thể. 

Nó là vitamin cần thiết cho sự phát triển khỏe mạnh của xương, răng, lợi, dây chằng và thành mạch. Vitamin C cũng là một thành tố tâm điểm trong tái tạo collagen và trong khả năng tái tạo các cơ quan tổn thương. 

Nó có khả năng làm tăng sức miễn dịch chung của cơ thể, tăng khả năng đề kháng với bệnh nhiễm trùng và đương nhiên, nó chống lại bệnh thiếu vitamin C - bệnh Scurvy. Và điều quan trọng, vitamin C, đã giúp Szent Gyorgyi trở nên nổi tiếng khắp toàn cầu.

Quá trình tìm ra vitamin C thực cũng không hề bằng phẳng. Trước khi tìm ra nó, người ta đã phải chứng kiến nhiều người bị bệnh do nó gây ra. Chừng hơn 2 thế kỷ trở về trước, các thủy thủ lênh đênh trên biển dài ngày đã thường xuyên rơi vào tình trạng thiếu vitamin C từ thực phẩm tươi. 

Và gần như họ phải trải nghiệm qua những chứng bệnh dị thường mà bản thân họ không hiểu điều gì đang xảy ra, do tội lỗi hay do chúa trời định đoạt. Họ chỉ biết lợi răng bị sưng, chảy máu chân răng, rụng răng, xuất huyết dưới da, vết thương liền rất chậm nếu như bất cẩn.

Dày công nghiên cứu, các nhà khoa học mới chỉ dừng lại ở mức, có lẽ trong các thực phẩm tươi có một “chất gì đó” có khả năng phục hồi và bảo vệ sự sống. Bởi nếu bổ sung nhóm thực phẩm tươi thì người ta lại khỏe mạnh và hoàn toàn không mắc bệnh. 

Hai nhà nghiên cứu Axel Holst và Alfred Frohlich đã đề xuất giả thiết về sự tồn tại của chất kỳ diệu đó (sau này được gọi là vitamin C) vào đầu những năm 1970 nhưng không ai chỉ ra được sự xác thực. 

Phải đợi mãi đến các năm 1920, Szent Gyorgyi mới làm được điều mà các nhà khoa học khác không làm được: nhận ra, phân lập và xác định chính xác sự hiện hữu của vitamin C. Chất này có cấu trúc giống với đường (glucose) và có tính chất như một axit. Ông gọi đó là axit hexuronic, chính là vitamin C ngày nay, một chất có khả năng tách và nhập nguyên tử hydro, ông gọi là chất mang hydro. Song nếu chỉ dừng ở đó thì ông cũng chưa được đăng quang.

Vào một ngày đẹp trời, ông lang thang trong vườn cam. Trong lúc nghiên cứu, quan sát và thí nghiệm, ông đã vô tình làm rớt những giọt nước cam vào đống rau củ bị chặt bỏ. Ông ghi nhận một hiện tượng vô cùng quan trọng: những rau củ có thêm những giọt nước cam, chúng lâu bị thối rữa hơn những rau củ khác. Ông bắt đầu thu hút sự chú ý của mình vào dung dịch cam và nhận thấy trong cam có rất nhiều axit hexuronic. Chất này chính là chất chống lại sự hủy hoại - vitamin C. Chính chất này có khả năng phục tồn sự sống, phòng vệ sự phá hủy và chống lại sự thối rữa. Chất đó là bệ đỡ cho giải Nobel Y học đã vinh danh.
  • Chấm dứt viêm gan C với sofosbuvir 400 mg  cho bạn hiểu quả tới 90%

Thanh hao hoa vàng - Cứu thế nhân loại

Thanh hao hoa vàng là một cây thuốc rất quý. Cây cao khoảng 1,5 mét, lá xẻ lông chim 2 lần, vò nát lá có mùi thơm. Hoa có màu vàng nhạt nên còn gọi là cây thanh hao hoa vàng. Quả có đài hình trứng. Cây thanh hao hoa vàng trong y học cổ truyền có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, bổ hư, lợi tiểu, thông khí trệ. 

Câu chuyện nếu chỉ dừng có thế thì thanh hao hoa vàng cũng chỉ nằm trong nhóm các cây thuốc bình thường của y học cổ truyền. Thanh hao hoa vàng khiến cho cả bác sỹ đông y và tây y chú ý, cả nhân loại chợt biết là vì nó gắn với một giải thưởng danh giá bậc nhất thế giới về y học, giải thưởng Nobel.

Giải Nobel Y học năm 2015 được trao cho ba nhà khoa học, William C. Campbell, Satoshi Omura và Youyou Tu (Đồ U U) trong đó 1/2 giải thưởng Nobel Y học năm 2015 được trao cho GS. Đồ U U, một nhà nghiên cứu của Trung Quốc đại lục. Đây là một giải thưởng được trao hơi kỳ lạ vì lẽ ra mỗi nhà khoa học sẽ giành 1/3 tổng giá trị giải thưởng nhưng do giá trị khoa học kiệt xuất của Đồ U U, bà đã giành được 1/2 giải thưởng Nobel Y học.

Đồ U U sinh năm 1930, tại Tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Con đường đến với Nobel Y học của bà không tơ lụa giống như sự nghiệp khoa học bất kỳ của nhà khoa học nào. 

Nhưng điều đáng nói, đó là sự nỗ lực, cố gắng và niềm say mê nghiên cứu của người phụ nữ Trung Quốc đầu tiên chạm tới vinh quang này. Trước khi có thuốc điều trị sốt rét, nhân loại khốn đốn với loại bệnh này. Người ta chỉ biết rằng, vào thời đó, sốt rét hoành hành và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu vào những năm đó. 

Hàng ngàn người chết, hàng ngàn binh sĩ phải bỏ mạng hoặc lui về chiến trường. Các cuộc chiến của Trung Quốc đứng bên bờ thất bại. Sốt rét vẫn là căn bệnh đáng sợ nhất trong các căn bệnh tại vùng cao nguyên núi rừng. Sốt rét càng ngày càng khiếp sợ, nó gây ra những đại dịch kháng thuốc khiến cho các nhà chính trị trở nên đau đầu. Một chiến dịch tìm thuốc điều trị mới được khởi động, trong đó có bà Đồ U U.

Để nghiên cứu ra thuốc sốt rét, bà đã phải lăn rừng, lội suối, làm ngày, thức đêm, đọc sách, lục báo, bà và cộng sự của bà đã phải nghiên cứu 2.000 bài thuốc y học cổ truyền khác nhau. Những bài thuốc này đa phần là bài thuốc cổ phương, bài thuốc kinh nghiệm và rất khó để áp dụng. 

Phải trải qua tất cả 380 dịch chiết từ 200 loại thảo dược, cuối cùng bà đã phát hiện ra thanh hao hoa vàng. Nhưng thành công cũng chưa hẳn đã mỉm cười. Lần đầu tiên nhóm nghiên cứu đã chiết ra dung dịch thanh hao hoa vàng hỏng, không có tác dụng điều trị. Tiếp tục “mò kim” trong phòng thí nghiệm, bà đã bào chế thành công thuốc tinh chế từ loại thảo dược này và cứu sống loài người khỏi dịch sốt rét.

Trước khi chạm tay vào giải Nobel Y học, Đồ U U là nhà khoa học bị “người đời lãng quên”. Bà là giáo sư 3 không: không bằng cấp, không nghiên cứu ngoại quốc, không là thành viên của Hội đồng khoa học quốc gia (những tiêu chí bắt buộc của Trung Quốc). 

Nhưng nhờ có thanh hao hoa vàng, bà đã được vinh danh. Và trong mối tương quan tương hỗ, Đồ U U đã nâng tầm thanh hao hoa vàng từ giá trị đất lên giá trị vàng. Bà đã cùng thanh hao hoa vàng trở thành hiện tượng y học và đem lại sự sống cho rất nhiều người như một cứu thế của nhân loại.

0 nhận xét: